Cùng với sự nhận thức và nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp trong lĩnh vực chuyển đổi số, việc xây dựng và thực thi hiệu quả các chính sách liên quan của Chính phủ sẽ định vị ngành logistics của Việt Nam đóng vai trò ngày càng quan trọng.
Không những trong các nguồn lực phát triển kinh tế xã hội của đất nước mà còn trong sự chuyển dịch của kinh tế khu vực và toàn cầu.
Ảnh minh họa.
Đối với nền kinh tế ngày nay, có hai lĩnh vực trọng tâm lớn nhất được đặt: Tiêu chuẩn và chuỗi cung ứng sản phẩm.
Ngành hậu cần logistics là một phần của quản lý chuỗi cung ứng liên quan đến dòng chảy hiệu quả của hàng hóa, dịch vụ và thông tin liên quan, từ điểm xuất phát đến điểm tiêu thụ theo nhu cầu của khách hàng.
Với sự phát triển của công nghệ số, logistics ngày càng đóng vai trò trung tâm của chuỗi cung ứng.
Logistics không chỉ có chi phí đầu tư lớn và tác động mạnh đến giá cả sản phẩm (trung bình chiếm khoảng 5% GDP, 20% giá cuối cùng của hàng hóa) mà còn có tính chất quyết định chất lượng của thương mại quốc tế khi mọi khách hàng đều mong muốn sản phẩm mình mua được giao một cách nhanh chóng và hoàn hảo nhất bất kể khoảng cách.
Trong 5 năm trở lại đây, ngành công nghiệp logistics đã chứng kiến sự xuất hiện ngày càng nhiều doanh nghiệp hợp tác chặt chẽ hơn với các công ty công nghệ, mở ra một thị trường trị giá hàng trăm tỷ đô la.
Kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế mở, dựa vào thương mại quốc tế khi có quan hệ kinh tế song phương với trên 230 nước và vùng lãnh thổ. Việt Nam cũng đã ký kết 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) với 60 nền kinh tế.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ là 1 trong 3 đột phá chiến lược để phát triển đất nước.
Thực hiện nhiệm vụ trên, chúng ta đã từng bước nâng cấp đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển, đường thủy nội địa giữa các địa phương và kết nối đồng thời với các nước.
Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ số trong doanh nghiệp logistics nói riêng và trong các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn nhiều hạn chế và đang đối mặt với khoảng cách lớn về Trí tuệ nhân tạo (AI).
Theo số liệu thống kê, đầu tư vào các công ty giải pháp AI thì Việt Nam và Philippines đều dưới mức 1 USD trên đầu người trong khi Singapore với 68 USD, Trung Quốc 21 USD và Hoa Kỳ đạt 155 USD.
Điều đó đòi hỏi Việt Nam cần phải đầu tư mạnh mẽ hơn nữa để tận dụng nền tảng kỹ thuật số trong sản xuất và phân phối hàng hóa, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Ngoài ra, chuyển đổi kỹ thuật số (DT) cũng có rủi ro bởi công nghệ kỹ thuật số cung cấp khả năng tăng hiệu quả và làm hài lòng khách hàng nhưng nếu doanh nghiệp thiếu tư duy để thay đổi, hạ tầng không đồng bộ và không có phương thức tổ chức triển khai thực hiện chiến lược chuyển đổi phù hợp thì sẽ dẫn đến thất bại và khi đó DT trở thành công cụ phóng đại những thất bại đó.
Thực tế cho thấy công nghệ số sẽ giúp ngành logistics vượt qua các thách thức bằng cách tối ưu hóa quy trình, giao tiếp từ đầu đến cuối, quản lý chuỗi cung ứng, cải thiện trải nghiệm của khách hàng và kiểm soát chi phí.
Tuy nhiên, quá trình ứng dụng công nghệ số trong doanh nghiệp logistics là quá trình chuyển đổi đột phá mang tính khoa học cao, đòi hỏi sự tiên phong nghiên cứu và đề xuất mô hình phù hợp với quy hoạch kinh tế xã hội từng khu vực cũng như môi trường thiên nhiên. Quá trình đó đòi hỏi những bước phát triển và mô hình thời gian phù hợp để đảm bảo sự thành công.
Để xây dựng môi trường kinh doanh kỹ thuật số đảm bảo đem lại lợi ích thiết thực và hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp cũng như chuyển đổi kinh doanh kỹ thuật số hiệu quả, nên chăng cần xây dựng 5 chính sách vĩ mô cụ thể:
Chính sách tiêu chuẩn logistics chung của quốc gia: Trong kỹ thuật công nghệ, tiêu chuẩn là ưu tiên số 1 nên cần xây dựng chính sách tiêu chuẩn logistics chung của Việt Nam phù hợp với xu hướng tiêu chuẩn và quy tắc chuyển đổi số của các nước công nghiệp phát triển.
Đảm bảo sự kết nối hoàn hảo tất cả các tiêu chuẩn phần mềm và phần cứng của hệ thống logistics và giao thông nhằm tạo sức mạnh cộng hưởng.
Đào tạo kỹ năng kỹ thuật số: Bất kỳ giải pháp công nghệ nào cũng phải tính đến ảnh hưởng tới người lao động và đặt con người lên hàng đầu. Cần xây dựng cam kết chung để đào tạo kỹ năng kỹ thuật số cho lực lượng lao động.
Liên kết các nguồn lực kinh tế xã hội (capital cluster): Logistics cần thiết không chỉ cho tất cả các hoạt động của chuỗi cung ứng mà còn cho tất cả hoạt động kinh tế như du lịch, thương mại và đầu tư.
Tuy nhiên, đây cũng là lĩnh vực cần nhiều nguồn lực nhất để đầu tư và ngược lại, cùng với hệ thống giao thông, ngành logistics với sự ứng dụng của công nghệ số sẽ là nguồn lực quan trọng nhất và là nền tảng kết nối chặt chẽ với 4 nguồn lực chủ yếu còn lại: tài nguyên, con người, tài chính và xã hội.
Chỉ có sự liên kết chặt chẽ các nguồn lực này mới đảm bảo sự thành công cho ngành logistics phát triển và tạo điều kiện để khởi xướng, đột phá và lan tỏa công cuộc đổi mới kinh tế lần thứ hai của đất nước, định vị quy mô kinh tế quốc gia trên trường quốc tế.
Hợp tác quốc tế trong việc phát triển các trung tâm logistics: Chuỗi cung ứng là một lĩnh vực kinh doanh toàn cầu và hiện nay đang trong quá trình chuyển đổi, vì vậy cần có chính sách đẩy mạnh việc hợp tác quốc tế trong việc phát triển các trung tâm logistics, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm như Đồng bằng sông Mekong, Đồng bằng sông Hồng và khu vực miền Trung.
Cần coi trọng phát triển hội nhập kinh tế trong ASEAN và coi đó là trọng tâm để đàm phán thương mại quốc tế và xây dựng chiến lược chuỗi cung ứng quốc gia, đảm bảo vị trí quan trọng của Việt Nam trong khu vực.
An ninh mạng: Chuyển đổi công nghệ số đem lại nhiều lợi ích, tuy nhiên việc ứng dụng nó cũng đem lại nhiều rủi ro. Vì vậy, cần tăng cường hợp tác và nâng cao năng lực trong lĩnh vực an ninh mạng khi xây dựng và triển khai chiến lược ứng dụng công nghệ.
Cùng với sự nhận thức và nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp trong lĩnh vực chuyển đổi số, việc xây dựng và thực thi hiệu quả các chính sách liên quan của Chính phủ sẽ định vị ngành logistics của Việt Nam đóng vai trò ngày càng quan trọng không những trong các nguồn lực phát triển kinh tế xã hội của đất nước mà còn trong sự chuyển dịch của kinh tế khu vực và toàn cầu.
TS. Đoàn Duy Khương
Theo Cổng TTĐT Chính phủ