Ông Nguyễn Thanh Bình – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên Huế cho biết thời gian qua tỉnh đã tập trung chỉ đạo, ban hành nhiều chương trình, kế hoạch xây dựng chính quyền điện tử, chuyển đổi số toàn diện trên các ngành, lĩnh vực, trong đó tập trung vào thế mạnh đặc biệt ở lĩnh vực văn hóa – di sản.
Đưa di sản vào chuyển đổi số
Huế là địa phương mang trong mình nhiều giá trị Văn hóa – Di sản, Thừa Thiên Huế lần đầu tiên đưa vấn đề Văn hóa – Di sản vào chuyển đổi số để nâng tầm các giá trị Văn hóa – Di sản, tạo ra những dịch vụ mới, các mô hình kinh tế mới cho Thừa Thiên Huế.
Tuần lễ chuyển đổi số là cơ hội giúp cho các cấp, các ngành, các địa phương tiếp cận được định hướng, chiến lược chuyển đổi số quốc gia, phương pháp chuyển đổi số địa phương phù hợp thực tiễn và theo tình hình mới. Nâng cao nhận thức làm cơ sở hoạch định chính sách và kế hoạch chuyển đổi số các cấp, các ngành, các địa phương trong thời gian tới.
Trong Hội thảo chuyên đề “Chuyển đổi số, phát huy sức mạnh văn hóa, di sản tạo đà phát triển kinh tế số”, Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao – Phan Thanh Hải đã nhấn mạnh về định hướng chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hoá, di sản.
Nhiều giải pháp công nghệ số thông minh được trình bày trong khuôn khổ Tuần lễ chuyển đổi số.
Tỉnh Thừa Thiên Huế đang lưu giữ một kho tàng di sản văn hóa phong phú, đa dạng cả về văn hóa vật thể và phi vật thể. Trong đó, có 3 di sản phi vật thể cấp quốc gia, 10 nhóm cổ vật với 35 hiện vật được công nhận là Bảo vật quốc gia. Đặc biệt, tỉnh có 7 di sản được UNESCO vinh danh thuộc 3 loại hình di sản vật thể, di sản phi vật thể và di sản tư liệu.
Vì thế, việc quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị kho tàng di sản văn hóa phong phú đó đòi hỏi cần phải có sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ cán bộ trực tiếp tham mưu thực hiện công tác bảo tồn, bảo tàng.
Đặc biệt, cần có những công cụ, phương thức quản lý khoa học, hiện đại để vừa nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo tồn, vừa khai thác và phát huy hiệu quả các giá trị của văn hóa, di sản để đẩy mạnh phát triển du lịch, dịch vụ, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Và việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số là công cụ hữu hiệu nhất để duy trì, gìn giữ, phát huy và nâng tầm các giá trị di sản, văn hóa truyền thống.
Cần xây dựng hệ thống dữ liệu phục vụ chuyển đổi số
Ông Nguyễn Thanh Bình – Phó Chủ tịch UBND tỉnh cho biết trong quá trình chuyển đổi số, tỉnh tập trung vào một số lĩnh vực chủ chốt như: Văn hóa, Du lịch, Giáo dục đào tạo, Khoa học công nghệ,… Đồng thời ban hành Nghị quyết chuyên đề làm rõ cơ chế, chính sách, nguồn lực để tạo động lực cho quá trình chuyển đổi số của tỉnh và giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ quan ban ngành.
Đến nay, tại Thừa Thiên Huế, một số đơn vị đã triển khai các giải pháp chuyển đổi số áp dụng công nghệ số hóa 3D trong việc quản lý, khai thác, quảng bá và phát huy giá trị di sản, tiêu biểu.
Cụ thể, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế triển khai app hướng dẫn tham quan “Di tích Huế”, ứng dụng công nghệ trải nghiệm thực tế ảo VR3D, quét mã QR Code để xem thông tin hiện vật, xem hiện vật bằng tương tác – Model 3D và xoay 360 độ; phục dựng Hoàng Thành bằng công nghệ số… Đặc biệt, Tuần lễ Festival Huế 2022 đã ứng dụng công nghệ trình chiếu 3D Mapping hiện đại để tổ chức lễ khai màn độc đáo và đầy ấn tượng.
Nhiều thiết bị hiện đại, áp dụng trong chuyển đổi số.
Bên cạnh những thuận lợi và kết quả bước đầu đã đạt được, việc triển khai thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa di sản ở Thừa Thiên Huế cũng gặp phải nhiều khó khăn, thách thức bao gồm xây dựng, xác định các nội dung văn hóa, di sản ưu tiên thực hiện chuyển đổi số, việc khảo sát, tập hợp, xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ số hóa; việc cải tạo, xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại để đáp ứng yêu cầu lưu trữ, quản lý, tích hợp các nội dung số hóa, chuyển đổi số.
Các chuyên gia nhận định, quá trình thực hiện số hóa di tích, di sản cần được triển khai một cách toàn diện đối với các đơn vị trong ngành, đặc biệt là các đơn vị trong khối di sản văn hóa của mỗi địa phương.
Từ việc khảo sát, tập hợp, xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ số hóa, đến việc xây dựng kho dữ liệu số dùng chung cần được thực hiện bài bản, theo quy trình. Các đơn vị đã số hóa dữ liệu, có cơ sở dữ liệu riêng cần sớm thực hiện tích hợp, chia sẻ dữ liệu với các bên liên quan.
Vấn đề nổi bật liên quan đến chuyển đổi số được các chuyên gia tập trung làm rõ là dữ liệu trong chuyển đổi số. Các chuyên gia nhận định, việc lưu trữ dữ liệu hiện đang mang tính chất rải rác, cần phải thiết lập một nguồn dữ liệu chung, dữ liệu chuyên ngành. Nguồn dữ liệu mở sẽ tạo đột phá về kinh tế, hình thành các lĩnh vực kinh doanh mới giúp nền kinh tế hoạt động tốt hơn.
Ông Nguyễn Xuân Sơn – Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Thừa Thiên Huế cho hay công tác thống kê dữ liệu ở một số địa phương hiện còn gặp một số vấn đề như công tác kiểm kê, phân loại thống kê dữ liệu trước khi số hóa chưa tốt; dữ liệu chưa có tính đồng bộ, tập trung; theo tiêu chuẩn của Thủ tướng chính phủ thì nguồn dữ liệu hiện có ở tính chưa “đúng, đủ, sạch, sống”.
Trong bài trình bày với nội dung: “Dữ liệu – Nền tảng quan trọng thúc đẩy chuyển đổi số Huế”, ông Nguyễn Văn Khoa – Chủ tịch VINASA phân tích thực trạng từ số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông, Việt Nam hiện có 10.600 tập dữ liệu mở, bằng 10% Australia, 0,75% châu Âu. Khi chưa có chiến lược quy hoạch dữ liệu, các, tỉnh, thành phố sẽ đối diện với những “nỗi đau” lớn.
Theo nghiên cứu của VINASA, chính quyền sẽ không kết nối được với các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu chuyên ngành nếu thiếu chiến lược quy hoạch, chuẩn hóa dữ liệu.
Trong khi đó, doanh nghiệp và người dân gặp khó khăn khi tìm hiểu, tra cứu thông tin. Người dân và doanh nghiệp cũng chưa có nhiều cơ hội tiếp cận đa dạng các dịch vụ thông minh. Chính quyền các tỉnh, thành phố cần coi dữ liệu chính là sức mạnh. Khai thác dữ liệu triệt để sẽ là nền tảng vững chắc cho quá trình chuyển đổi số.
Trước thực tế về quản lý dữ liệu tại Huế, Chủ tịch VINASA đề xuất giải pháp hiệu quả, tập trung mô hình 5 bước: quy hoạch, xây dựng, khai thác và chia sẻ dữ liệu. Và để thực hiện được mô hình này cần nguồn lực tài chính, con người, thể chế, pháp lý… Từ đó, dữ liệu được công nhận, và sử dụng lâu dài.
Theo Tạp chí SHTT & Sáng tạo – Phan Hòa